Prev
Next

Đàn tính (Tính tẩu)

Dân tộc: Dân tộc Tày


Chất liệu: Cây tơ và bầu


Kích thước:


Năm sưu tầm: Năm 1993


Nơi sưu tầm: Thôn An Thịnh, xã Tân An, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang


Nơi lưu giữ: Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam


Thông tin hiện vật


Đàn tính (Tính tẩu) là loại nhạc cụ tiêu biểu của đồng bào dân tộc Tày sưu tầm của ông Hà Văn Thuấn, 71 tuổi, dân tộc Tày, thôn An Thịnh, xã Tân An, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang tự làm năm 2003. Đến năm 1993, do yêu cầu phục vụ công tác nghiên cứu trưng bày ông Thuấn đã nhượng lại cho Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam.

Đàn tính là nhạc cụ tiêu biểu, gắn liền với đời sống tinh thần của các tộc người Tày, Nùng, Thái nói chung. Đàn tính có từ bao giờ, không ai còn nhớ. Người ta chỉ biết rằng, thuở ấy từ xa xưa lắm, có anh chàng tên là Xiên Cân đã ngoài ba mươi tuổi mà vẫn chưa lấy được vợ. Một hôm đi ra ngoài suối lấy nước khi nhìn xuống mặt nước anh giật mình vì đã già đi nhiều quá. Buồn lo cho sự hẩm hiu của duyên số, Xiên Cân chỉ còn biết đánh bạn với đàn hát. Anh bèn lên trời xin nàng Dâu hạt giống cây dâu về trồng ở dưới trần. Thấm thoát ngày tháng cây dâu đã lớn, cành lá tốt tươi và đàn tằm của anh cũng miệt mài thả tơ. Khi đã có cây tơ và bầu, Xiên Cân lên rừng kiếm cây "Khảo hương" làm cần đàn và sừng đàn. Anh mắc vào cây đàn của mình 12 dây tơ. Mỗi khi buồn phiền anh lại lấy đàn ra gẩy. Nghe tiếng đàn của anh, muôn loài đều say mê, cũng nhiều con héo hon đau khổ vì tiếng đàn. Thấy vậy Bụt đã bắt đã bắt Xiên Cân cắt đi 9 dây, chỉ còn cho phép để 3 dây. Cây đàn 3 dây bằng tơ này chính là cây đàn tính của người Tày bây giờ.

Cây đàn tính trong âm nhạc then giữ vị trí và vai trò quan trọng. Nó vừa là dẫn dắt, vừa là đệm nhưng đồng thời cúng là một giọng hát thứ hai, bổ sung cho giọng hát nghệ sĩ diễn xướng. Chính đàn tính với phần việc của nó đã góp phần làm hoàn chỉnh những cấu trúc làn điệu âm nhạc then. Đàn tính thuộc đàn họ dây. Khi đánh đàn, dùng ngón tay trỏ của tay phải để gảy. Nó được làm bằng quả bầu cắt đi 1/3 và cần đàn. Kinh nghiệm dân gian mà sau này như một công thức cho tỷ lệ bầu đàn và cần đàn là slam căm tẩu, cẩu căn càn (tức là chiều rộng mặt bầu được đo bằng ba nắm tay, chiều dài cần đàn là chín nắm tay). Đàn gồm ba dây, dây thấp nhất lại là dây giữa, luôn luôn thấp hơn dây cao nhất một quãng 8. Có hai kiểu lên dây, quãng 5 (tăng nặm), quãng 4 (tàng bốc). Tên gọi của các dây như sau: Dây cao gọi là Tiền dây, thấp gọi là Hậu, dây trầm ở giữa là Trung. Cách lên dây đàn cũng có những quy định như sau: Khi đang đàn ở táng nặm (quãng 5) muốn đổi sang tàng bốc (quãng 4) hoặc ngược lại, thì chỉ có thể điều chỉnh dây hơi lên hoặc xuống chứ không bao giờ được điều chỉnh dây Tiền. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, dù xã hội đã nhiều thay đổi, nhưng đến nay, cây đàn tính vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tình cảm, trong tâm hồn người Tày, Nùng. Huyền thoại xưa về cây đàn của Xiên Cân tuy đã bị Bụt bắt cắt 9 dây, song sức mạnh chinh phục lòng người của nó vẫn còn sống mãi với thời gian, hoà cùng với các làn điệu then tạo thành bản sắc riêng của cư dân thung lũng. 

Gửi đánh giá

Xem các hiện vật khác