Prev
Next

Hái gặt lúa nương

Dân tộc: Dân tộc Tày


Chất liệu: Gỗ, sắt


Kích thước: Hai mấu sắt dài 2cm, cán dài 43cm


Năm sưu tầm: Năm 1982


Nơi sưu tầm: Bản Cuôn, xã Trung Hà, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang


Nơi lưu giữ: Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam


Thông tin hiện vật


Hái cắt lúa sưu tầm của bà Ma Thị Béng, 56 tuổi, dân tộc Tày ở bản Cuôn, xã Trung Hà, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang. Chiếc hái này được sưu tầm năm 1982, do gia đình bà Béng tự làm để sử dụng trong việc thu hoạch lúa nước. Cư trú lâu đời trên địa bàn thung lũng, có điều kiện tự nhiên thuận lợi, cư dân Tày đã sớm phát triển nông nghiệp lúa nước kết hợp với làm nương rẫy. Trên nương rẫy, cư dân Tày phổ biến canh tác theo phương thức phát canh, đốt, trồng trỉa. Mùa thu hoạch, họ dùng nhíp hái từng bông lúa, bó thành cum, mang về, cất lên gác bếp. Khi nào ăn, họ mới mang xuống vò và giã. Ngoài ra, đồng bào còn sử dụng liềm, hái để thu hoạch lúa nước. Hái được làm bằng sắt và tre gồm có hai bộ phận: Phần cán hái và lưỡi hái. Lưỡi hái bằng sắt, hình bầu dục, mặt lưỡi có răng cưa nhỏ, hai đầu có có hai mấu sắt dài 2cm, nhô lên để tra cán. Cán dài 43cm, hình chữ L làm bằng tre già đặc ruột, chuôi cán có đục lỗ để luồn dây, một đầu vót nhọn. Khi cắt lúa, dù cầm hái tay phải hay tay trái, cán nhỏ hơi cong phải quay vào trong, lưỡi hái có đường lưỡi răng bén quay ra ngoài. Người gặt cầm hái quơ dồn góc nhọn bên trong, gom cây lúa vừa đủ một nắm tay rồi quay lưỡi hái để cắt lúa. Ngày nay, đồng bào Tày chủ yếu sử dụng liềm để cắt lúa, một số vùng đã sử dụng máy gặt đập, năng suất cao. Chiếc hái hầu như không còn sử dụng nữa. 

Gửi đánh giá

Xem các hiện vật khác