Thông tin hiện vật
Chiếc nón sưu tầm của bà Hứa Thị Tích, 56 tuổi ở xóm Hiếu Lễ, xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, Bà Tích mua chiếc nón này từ năm 1945 để đội trong sinh hoạt hàng ngày, các dịp lễ tết, cưới xin, thăm hỏi bạn bè. Năm 1986, do yêu cầu phục vụ công tác nghiên cứu, trưng bày bà Tích đã đồng ý nhượng lại chiếc nón này cho Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Nguyên liệu để làm nón là tre, trúc, lá cây chít hoặc lá mai. Nón lá của người Tày có nhiều loại như: Chúp chọp (nón chóp), Chúp slâng (nón bè như cái sàng), Chúp Vja (nón đan có hoa văn, hoặc nón kết hoa), Chúp tha bẻ (nón có hoa văn tròn như mắt con dê)… Tùy theo nhu cầu, mục đích sử dụng, người thợ đan sẽ chẻ lạt, chọn lá cho phù hợp. Với những chiếc nón dùng để đội đi làm đồng thì nan lạt để mộc, không nhuộm để tạo hoa văn. Những chiếc nón đội khi đi chợ, đi hội, đi hát giao duyên, hoặc nón của cô dâu đội trong ngày cưới sẽ được nhuộm nan, đan cầu kỳ, trang trí hoa văn.
Công việc đan nón được tiến hành quanh năm, vào các dịp nông nhàn, sản phẩm chủ yếu là tự cung, tự cấp.
Chiếc nón lá không chỉ là vật dụng dùng để đội đầu che mưa, che nắng, mà còn là tín vật tình yêu của trai gái hẹn hò. Khi cô dâu về nhà chồng, ngoài những lễ vật mang theo như chăn, màn, chậu, chiếu... còn có chiếc nón. Trong tang ma của người phụ nữ Tày, anh em họ hàng cũng làm chiếc nón buộc lên nhà táng để làm của cải tiễn hồn về cõi âm.
Xem các hiện vật khác